TCCV Online - Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua biết bao thăng trầm, biến động, cay đắng và vinh quang. Cũng chính từ những năm tháng gian khổ ấy, một cách thật tự nhiên, hình tượng người chiến sĩ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc và là niềm cảm hứng, thôi thúc mãnh liệt cho sự sáng tạo của các nghệ sĩ ở nhiều thể loại. Tuy rằng mỗi nhà văn có những cách thế khai thác riêng, mang đặc trưng thời đại và phong cách, nhưng tựu chung lại, họ đã tạo dựng nên mẫu người văn hóa mới - người chiến sĩ cách mạng, biểu tượng cho vẻ đẹp cao cả của một dân tộc bền gan vững chí trước những thử thách sống còn.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim
Tiếp nối văn thơ yêu nước của các nhà Nho, các chí sĩ cách mạng trong 30 năm đầu thế kỷ XX, một thời kỳ văn học mới được định hình và phát triển theo sát các thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Và cũng chính thời điểm này, người chiến sĩ vô sản với tâm hồn rực lửa đấu tranh và vững vàng trước mọi gian nguy, thử thách hiện lên một cách sáng ngời, cao đẹp hơn bao giờ hết. Ngày họ bắt gặp “mặt trời chân lý” là một khoảnh khắc không thể nào quên trong cuộc đời cách mạng. Niềm vui khó tả, vỡ òa trong tiếng reo vui rộn rã: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim/ Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim” (Từ ấy - Tố Hữu). Vẫn còn những cuộc vật lộn âm thầm, quyết liệt trong quá trình nhận đường nhưng hơn ai hết, họ hiểu rằng, dấn thân hoạt động cách mạng là phải đối diện với gian nguy, thử thách, thậm chí là cái chết kề bên (Trăng trối - Tố Hữu). Nhưng người chiến sĩ coi thường cái chết. Với họ, sống có nghĩa là đấu tranh. Và, nếu cần phải chết, họ chọn cái chết có ý nghĩa nhất, chết cho lý tưởng cách mạng và độc lập, tự do của dân tộc (Hãy đứng dậy - Tố Hữu).
Dù phải đối mặt với đàn áp, tù đày, gông cùm của kẻ thù, nhưng người chiến sĩ vẫn luôn giữ vững lòng trung thành với lý tưởng của Đảng và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng. Cảm hứng lạc quan cách mạng, niềm say tương lai, ý chí kiên cường, bất khuất, và sự trong sáng của lương tâm nơi người chiến sĩ thể hiện đậm đà nhất chính ở những vần thơ viết trong ngục tù (Không giam được trí óc - Xuân Thủy, Từ ấy - Tố Hữu). Có thể nói, hình ảnh người chiến sĩ trong những ngày đầu cách mạng có sức lay động và cuốn hút mạnh mẽ, là “tiếng gọi lên đường” và “hồi chuông báo thức” để toàn thể dân tộc vững tin bước vào “cuộc chiến mười ngàn ngày” thần thánh.
Anh Vệ quốc quân ơi/ Sao mà yêu anh thế!
Văn học Việt Nam trong thời đại mới đã đưa hình ảnh người Vệ quốc quân lên vị trí trung tâm. Người chiến sĩ trong giai đoạn này so với những năm trước cách mạng và những năm đầu kháng chiến (1945-1946) đã được khám phá, thể hiện đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Vẻ đẹp của người lính gắn với nét bình dị, chân chất, hồn nhiên. Họ đến từ mọi miền của đất nước, từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi lên miền ngược. Cuộc đời họ gắn liền với đồng ruộng, nông thôn, thành phố, nhưng chủ yếu họ là người nông dân mặc áo lính. Vất vả, thiếu thốn trăm bề, hiểm nguy rình rập, cái chết cận kề, nhưng người chiến sĩ đã vượt qua mọi gian khổ, thử thách, chiến thắng hoàn cảnh, bệnh tật, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Phẩm chất anh hùng, tinh thần chiến đấu dũng cảm của người chiến sĩ hiện lên qua nhiều dáng vẻ. Từ những cử chỉ, lời nói, công việc hằng ngày, đến những hành động hiên ngang, khí phách, quên mình vì nhiệm vụ (Tây Tiến - Quang Dũng, Đồng chí - Chính Hữu). Người chiến sĩ đã bộc lộ một cách rực rỡ nhất tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình trong những ngày chiến đấu và chiến thắng ở Điện Biên Phủ: “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn?” (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu).
Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, ở các anh vẫn toát lên niềm lạc quan, yêu đời, chân chất, hồn nhiên. Không khí lạc quan tỏa khắp nhiều tác phẩm, thể hiện tấm lòng yêu nước, yêu sự sống của người chiến sĩ cách mạng (Lên Cấm Sơn - Thôi Hữu, Nhớ - Hồng Nguyên, Đồng chí - Chính Hữu, Tây Tiến - Quang Dũng, Từ đêm 19 - Khương Hữu Dụng, Trận Thanh Hương - Nguyễn Khắc Thứ, Vượt Tây Côn Lĩnh - Tô Hoài, Ký sự Cao Lạng - Nguyễn Huy Tưởng, Trận Phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị - Trần Đăng,Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu).
Trong những năm tháng gian lao ấy, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ được thắp sáng với tình đồng chí, tình quân dân mặn nồng, sâu đậm. Họ nhường cho nhau từng tấm áo, mảnh chăn; truyền cho nhau hơi ấm tình người; chia sẻ với nhau những ấm lạnh của cuộc đời riêng, những kỷ niệm khó quên nơi quê nhà, và những tình cảm thầm kín, thành thật, cháy bỏng (Đồng chí - Chính Hữu, Quân về - Nguyễn Ngọc Tấn, Ngày Tết quân dân - Lưu Quang Thuận, Lời quê - Hồ Vi, Rang thóc - Trần Lê Văn, Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông, Gặt lúa đêm trăng - Huy Cận, Mùa về - Hải Hồ, Xếp bánh phồng - Nguyễn Hiêm, Xung kích - Nguyễn Đình Thi,…).
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Văn học giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, với ý thức ngày càng sâu sắc trách nhiệm trước dân tộc và nhân dân, lịch sử và thời đại. Có thể nói, chưa bao giờ sứ mệnh của người lính với Tổ quốc và nhân dân lại được thể hiện nhiệt thành, chân thực và nồng cháy đến vậy.
Hình ảnh người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ hiện lên với những phẩm chất cao đẹp. Họ vẫn mang những vẻ đẹp truyền thống của anh Bộ đội Cụ Hồ: Lòng yêu nước cháy bỏng, ý chí nghị lực phi thường, tình đồng đội, tình quân dân thắm thiết, tâm hồn lạc quan, yêu đời nồng đượm… Vẻ đẹp nổi bật của hình tượng người chiến sĩ chính là sự trẻ trung, hóm hỉnh, tinh thần lạc quan, đậm chất lính. Họ biết tạo ra niềm vui từ những khó khăn, gian khổ; ngang tàng trong cách nhìn những thiếu thốn, hiểm nguy. Đặc biệt, người lính còn mang trong mình vẻ đẹp mới của thời đại Hồ Chí Minh. Vẫn là lý tưởng độc lập tự do, nhưng với các anh, lý tưởng ấy đã được nâng tầm, trở thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa; gắn sứ mệnh trọng đại của dân tộc trong cuộc đấu tranh của nhân loại (Chào xuân 67 - Tố Hữu, Những dũng sĩ đâm lê Núi Thành - Phạm Hổ, Bài thơ về hạnh phúc - Dương Hương Ly, Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ, Khoảng trời hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ, Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm, Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)...
Tập trung khai thác và miêu tả vẻ đẹp anh hùng của người chiến sĩ, các nhà văn đã làm nổi bật âm hưởng sử thi và chủ nghĩa yêu nước của thời đại. Người chiến sĩ mang trong mình những phẩm chất lớn lao: Can trường, mưu trí, quả cảm trên chiến trường (Lữ, Khuê, Kinh, Nhẫn - Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Mẫn - Mẫn và tôi (Phan Tứ), bất khuất, gan dạ trước sự bạo tàn của kẻ thù (Tnú, Mai, Dít - Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho lý tưởng cách mạng (chị Sứ - Hòn đất (Anh Đức), chị Út Tịch - Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Nguyễn Văn Thạc - Mãi mãi tuổi hai mươi, Đặng Thùy Trâm - Nhật ký Đặng Thùy Trâm). Không những vậy, ở họ còn là sự kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn, lương tri cao thượng: Yêu quê hương, gia đình, sống trách nhiệm, nhân ái với đồng chí, đồng bào, đồng loại…
Ngẫm về thế hệ mình…
Đại thắng mùa xuân lịch sử 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đưa đến một chặng đường mới cho nền văn học Việt Nam. Với cảm hứng phân tích, luận giải gắn với tâm thế chiêm nghiệm, đối thoại, các sáng tác về đề tài chiến tranh và hậu chiến đã xây dựng nên hình tượng người chiến sĩ chân thật, sâu sắc, đa diện, nhân bản và đầy sức ám gợi.
Hình tượng người chiến sĩ được đặt trong mối quan hệ đời tư, thế sự đa chiều, những trạng huống nhân sinh phức tạp, chịu sự chi phối nghiệt ngã của những quy luật đời thường. Không còn cái thuần thiết, toàn bích của con người cộng đồng, con người lý tưởng, đại diện cho một thế hệ anh hùng; văn học giai đoạn này khám phá, nhận diện người lính trong tính đa diện, nhiều chiều của số phận, tính cách và bi kịch tâm hồn. Bước ra khỏi cuộc chiến, họ không chỉ mang trong mình những vết thương hằn trên da thịt, mà còn là những chấn thương tinh thần ám ảnh trong suốt quãng đời còn lại (Kiên - Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Quỳ -Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu), Quy - Chim én bay (Nguyễn Trí Huân).
Người lính trở về từ cuộc chiến phải hòa mình vào cuộc sống đời thường với những nỗi lo cơm áo gạo tiền. Can trường, bản lĩnh trong chiến tranh là thế, về với cuộc sống thời bình dù sao họ cũng thấy mình ít nhiều lạc lõng. Có người còn cảm thấy lạc loài trong chính ngôi nhà của mình (Tướng Thuấn - Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), cô đơn trong cuộc sống thời hậu chiến (Hai Hùng - Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Phái - Vùng biển thẳm (Trần Quốc Huấn). Họ lạ lẫm bởi nếp nghĩ, lối sống, cách hành xử của những người xung quanh. Không ít người đã thất bại trong đời thường (Vũ Nguyên - Cuộc đời dài lắm (Chu Lai). Ngay trong bản thân người lính cũng diễn ra sự vật lộn quyết liệt giữa cái tốt và cái xấu, khát vọng và dục vọng, cao cả và thấp hèn, lý tưởng và duy ý chí, ánh sáng và bóng tối, cống hiến và sự tự mãn, cao thượng và ích kỷ (Bùi Việt Pháo trong Đò ơi, Thìn trong Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Phan Lý Chánh trong Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Phạm Xuân Ban trongNhững bức tường lửa (Khuất Quang Thụy), Đông trong Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Hoàng Lương trong Trung tướng giữa đời thường (Cao Tiến Lê), Huấn, Út Loan trong Vòng tròn bội bạc, Ba Sương trong Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)…
Nhìn lại cuộc chiến đã qua, khi giai điệu hào hùng của bản anh hùng ca một thời lắng xuống niềm phấn kích, say sưa chiến thắng vơi dần, những người lính trở về với cuộc sống thường nhật được dịp quan sát, nối kết, suy nghiệm, đối thoại về những vấn đề thế sự, nhân sinh. Họ luôn sống với thời gian hai chiều: Ký ức và thực tại. Nhiều người đã tìm về với quá khứ, không phải là để “ăn mày dĩ vãng” mà với người lính, đó là cách họ tìm lại sức mạnh để đối diện với cuộc đời (Thanh Thảo - Một người lính nói về thế hệ mình). Từ điểm nhìn chứng nhân và nếm trải, họ làm sống lại ký ức thiêng liêng một thời - thời của những nhọc nhằn, gian nan, những mất mát, hy sinh, những hào hùng, vinh quang và cả những đớn đau của kiếp người (Ngày đang mở sáng - Trần Anh Thái, Trường ca Trường Sơn - Nguyễn Anh Nông, Mở bàn tay gặp núi - Nguyễn Đức Mậu, Nhật ký dòng sông - Nguyễn Trọng Bính). Họ đau nỗi đau mất đồng đội, những người thân yêu và ruột thịt, vô số và vô danh, vẫn đang còn lang thang, phiêu bạt đâu đó nơi rừng xanh núi thẳm (Trần Anh Thái - Ngày đang mở sáng). Còn khi trở về với thực tại, họ luôn tự vấn lương tâm, trăn trở về những “món nợ” tình người không bao giờ trả hết (Về làng, Nợ đời - Nguyễn Duy).
Những hệ lụy từ cuộc chiến tranh vẫn còn lẩn khuất đâu đấy trong cuộc sống của người lính. Họ sống với hiện tại cùng sức mạnh, nỗi đau từ quá khứ, dùng niềm tin và để đi tới tương lai. Những góc khuất thẳm sâu nơi tâm hồn, những sự thật ở “bề sau, bề sâu, bề xa” không những không làm mờ đi hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ trong tâm thức ngưỡng vọng, tự hào của người Việt Nam; mà còn tôn lên nét gần gũi, thân thuộc, bình dị, đời thường của họ. Chính điều này đã mang lại giá trị nhân văn trong các sáng tác về đề tài chiến tranh và người chiến sĩ sau 1975.
Thông qua việc xây dựng hình tượng người chiến sĩ, nền văn học Việt Nam hiện đại đã có những dấu ấn và thành tựu to lớn về mặt tư tưởng, thẩm mĩ và hình thức thể hiện. Người chiến sĩ là một trong những hình tượng đẹp nhất, rực rỡ nhất, có sức lay động nhất mà nhiều thế hệ nghệ sĩ đã xây dựng được. Lắng nghe và nghiệm suy từ hình tượng ấy, chúng ta sẽ nhận diện được gương mặt lịch sử, tinh thần của dân tộc; thấu hiểu, đồng cảm với những đau thương và vinh quang, nhọc nhằn và kiêu hãnh của cha ông, và nhắc nhở nhau sống có trách nhiệm với Tổ quốc, quê hương, gia đình, và chính mình.
N.V.H
(Nguồn - Tạp chí Langbian)