Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 20/06/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

“Ai đó chết rồi chôn rồi hết” - thơ của người “bị bắt làm người”

TCCV Online - Bây giờ in thơ thì dễ và rất nhiều tập thơ được in ra. Nhưng in thơ và bán thơ để làm thiện nguyện như Bùi Viết Anh thì không nhiều người dám làm. Vì đây là việc không dễ, khi người làm thơ thì nhiều, còn người đọc lại rất kén đọc thơ. Trong bối cảnh đó, thơ Bùi Viết Anh thu hút người đọc bởi cách cảm, cách nghĩ, lối viết có nét riêng, cá tính, không lẫn vào “đám đông”. Điều này được thể hiện đậm nét qua tập thơ “Ai đó chết rồi chôn rồi hết” của Bùi Viết Anh vừa trình làng thông qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Ngay tên tập thơ “Ai đó chết rồi chôn rồi hết” lấy từ bài thơ cùng tên đã có tính “lạ”, có sức ám ảnh. Bài thơ này vừa tỏ bày nỗi nhớ tiếc tuổi đời đã qua, những kỷ niệm ấm áp, yêu thương, nỗi nhớ thương quê nhà, nhớ ơn người cha khó nhọc nuôi con; vừa thể hiện niềm đau nhân thế khi “tiền bạc lên ngôi, thứ rẻ mạt bỗng trở nên đắt giá”; để rồi đoạn kết buông lời thảng thốt nhưng cũng chính là lời mặc định “ngộ” ra về tính chất cõi tạm của kiếp người:

Giữa cánh đồng một nấm mộ mồ côi

Ai đó chết rồi chôn rồi hết…

Có thể nói, “Ai đó chết rồi chôn rồi hết” là bài thơ “đại diện” cho toàn bộ tập thơ, thể hiện tập trung nhất, đậm nét nhất cách cảm, cách nghĩ, lối viết và những chủ đề chính trong tập thơ.

Cái tôi trữ tình trong tập thơ biểu hiện khá đa dạng. Có cái tôi da diết tình yêu quê nhà: “Nhưng lòng Tìm (1) ngàn kim đâm ứa, Tiếng quê hương réo rắt ở tim mình” (Nổ chậm trên đời không tiếng mà đau… ), “Rêu đã mọc bên tường an trú, Đang ở nhà mà rất nhớ quê” (Mưa). Tình yêu đó sâu thẳm và thiêng liêng như một tín điều tôn thờ: “Ta quỳ xuống và lắng nghe tiếng đất, Cám ơn người vẫn cười khóc như nhiên, Đồng bỗng gió bỗng nhớ nhung da diết, Nhớ những gì cũng chẳng biết đất ơi” (Đồng bỗng gió).

Có cái tôi tự trào: “Một thằng điên giữa trời quang, Chờ thằng tỉnh đang lang thang chưa về” (Một), “Đời tao điên chứ đâu có ngu mô mà bây cứ chửi” (Nhà thơ), “Tôi vốn giống loài đười ươi, Nên vui buồn rất tương đối” (Mai này tôi chết), “Anh và em chọn kiếp đười ươi, Nên việc chúng ta là giữ cho mình nhịp thở” (Đầu năm biên vội vài điều). Từ “đười ươi” gợi nhớ đến nhà thơ quái kiệt Bùi Giáng, người tự nhận mình là “thi sĩ đười ươi”: “Cọp rằng: đích thị đười ươi, Là thằng thi sĩ nọ bùi trung niên” (Câu chuyện ở trong núi), “Em về giũ áo mù sa, Tiền trình vạn lý anh là đười ươi” (Em mọi điên). Nhưng ngữ nghĩa từ “đười ươi” của Bùi Viết Anh có chỗ giống, có chỗ khác Bùi Giáng. Giống ở chỗ, “đười ươi” là cách nói giễu nhại bản ngã, nói đến một cách thế sống tự do, hồn nhiên, tìm về với nguyên sơ, hoang dã. Khác ở chỗ, “đười ươi” trong thơ Bùi Viết Anh, ngoài sắc thái hồn nhiên ra còn mang sắc thái đượm buồn, tự phản tỉnh của người trải nghiệm “vị đắng” nhân sinh: “sen luân hồi phận người, chớm nở rồi chớm tàn, mình luân hồi phận đười ươi, chưa tàn đã kịp phản trắc” (Vội), “Anh là loài vô nghĩa đười ươi”(“Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt… ”), “Tìm đã là một thằng đười ươi vô vọng” (Nhớ ngày tháng này nọ), “Tôi là kẻ đười ươi hèn hạ... ” (Tôi sẽ đi làm mắm trí óc mình… ).

Có cái tôi ngông trước “mưa nắng” sự đời, trước những tầm thường nhân thế: “Mím môi cười rồi nhổ lên trời một phát, Thế là xong. Ba vạn sáu ngàn ngày… ” (Nhớ ngày tháng này nọ), “Những khúc mắc cuộc đời kệ nó” (Giả đò), “Nhưng ta chỉ một lần chết, Có sợ cũng chẳng ích gì, Nên chi những chuyện được mất, Ta nói: mặc kệ nó đi” (Có sợ cũng chẳng ích gì). Có cái tôi ham chơi: “Đã trót sinh ra nơi trần thế, Chơi đi cho xứng với mây ngàn” (Mưa), “Bây giờ cứ vẹn cuộc chơi, tàn tro sưởi ấm đầy vơi với đời” (Sau lần ái mộ đầu tiên). Nhưng ham chơi ở đây không phải để tìm niềm vui cạn cợt, dễ dãi mà là để sống cùng tận nỗi đời ngọt đắng, cùng tận thú đau thương của cõi người: “Đời ta chẳng thèm nhiều, Tiền đàn bà và rượu, Ba thứ đam mê đó, Đường đi đã liêu xiêu, Ai thương ta thì nhớ… , Rượu tình tiền và… Thôi (Ai thương ta thì nhớ… ), “Đời Tìm là một kiếp ăn xin, Làm thằng hành khất qua phận người, cũng là trò chơi hoan lạc… ” (Viết cho Tìm một cuối năm).  

Có cái tôi phản tỉnh, tự “sỉ vả” mình: “Đời ta vốn rất nhiều ô trọc” (Đời ta vốn rất nhiều ô trọc), “Đời Tìm là một đống bùi nhùi” (Viết cho Tìm một cuối năm). Có cái tôi muốn thoát tục, không vướng bụi trần: “anh ước gì trở thành kẻ tu hành, đi trên đường với những bước vô thanh, ăn cơm thập phương trao một người khất thực” (Ăn cơm thập phương trao một người khất thực), “Mai này cơm áo không lo nghĩ, Ta sẽ cạo đầu ẩn cư tu” (Ta sẽ cạo đầu ẩn cư tu). Có cái tôi suy tưởng, triết lý: “loài người mấy ai tự thấy là hạt cát, để kịp tưởng nhớ mình khi chưa tan ra… sự khùng điên bản ngã, ngộ ra mình hư không” (Bái vọng), “Tin hay không cũng mặc định là đời” (Tin hay không cũng mặc định là đời… ), “Đời dài hơn bàn tay, Nên trò đời ta không vẽ được” (Noel), “Không ai có thể cả đời gian dối, Nên lặng lẽ đôi khi nhặt được bóng mình” (Ồn ào và lặng lẽ)…

          Như tên của tập thơ, bên cạnh những chủ đề khác, có thể nói chủ đề nổi bật nhất của tập thơ là chủ đề về cái chết và thái độ sống, ý nghĩa cuộc sống của con người. Loài người sinh ra, theo bản năng, ai mà chẳng ham sống sợ chết:

          “ơ hay! giữa đời ô trọc

          nỗi sợ không ám ảnh tôi

          mà bên kia đời ô trọc

          lại sợ bóng ma tôi ngồi

                   (Qua đời)

Sợ chết, nhưng con người phải chấp nhận cái chết, vì đây chính là quy luật nghiệt ngã của tạo hoá:  

Xin cám ơn những giọt máu đã tuôn

Nhưng sống để biết rằng ngày sau mình sẽ chết…

(Một bài thơ không thể viết thành đời)

Ai trong đời rồi đến lúc cũng phải chết…

Ai cũng muốn nói những lời minh triết

Chỉ tiếc rằng cánh đồng chỉ có đám cỏ lau…

(Cuộc chơi là nhục vinh)

Đã là quy luật thì không thể cưỡng lại được, ai cũng một lần chết, nên thơ Bùi Viết Anh nói cứng: “Có sợ cũng chẳng ích gì”. Sợ chết, do đó chỉ được Bùi Viết Anh nhắc thoáng qua và đây không phải là điều chú tâm nhất. Nỗi sợ lớn nhất trong tập thơ không phải là nỗi sợ chết theo bản năng thường tình mà là một nỗi sợ sâu sắc hơn, có tính triết học và nhân văn hơn, đó là nỗi sợ không thể chết như một con người:

Anh sợ gì không ư? Anh sợ nhiều thứ lắm

Sợ vợ con không có gạo để ăn

Sợ bàn tay ngửa lên và lật úp

Sợ mặt cười bỗng hoá chằn tinh

 

Nhưng nỗi sợ lớn nhất đời là anh không thể

Chết như một con người ở trên mảnh đất này

Nên, vâng ạ, mùa xuân mai hoa sắp nở

Và anh đang vô tư sống trên những luống cày

(“Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt… ”)

Các tôn giáo, trường phái triết học thường quan tâm bàn đến cái chết. Triết học hiện sinh, với triết gia Đức Heidegger, cho rằng con người “là một tồn tại tiến về cái chết của mình” (2) và chính điều này “đưa ta đến sự kiên quyết “hành động” hoàn toàn không còn vương ảo tưởng” (3). Từ cách nghĩ của Heidegger, ý nghĩa rút ra là chỉ khi ý thức sâu sắc về cái chết, con người mới sống một cách đích thực, sống một cách tự quyết, xác quyết, lựa chọn cách sống và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, tức là sống một cách “người” hơn. Trong tập thơ của Bùi Viết Anh có nhiều con chữ trở trăn, vật mình thao thức về chuyện sống sao cho đúng nghĩa để được “chết như một con người”:  

Mạ cha cho ta một tấm thân

Đời dạy ta biết sống thế nào cho phải phép

(Những ngày bình thường)

Phán xét một con người thì dễ. Nhưng sống như một con người thì mới thật khó khăn

(Khi lìa trần có mấy người đưa)  

Mượn tấm kính chiếu yêu của đời, một đời sống đích thực, một đời sống “cho phải phép”, thơ Bùi Viết Anh đã soi rọi, lột tả những mặt sáng tối, thiện ác, đúng sai, thật giả, lộng giả thành chân trong cõi thế:

Con ta hỏi quỷ ma ba có sợ

Ba chỉ sợ sự ác của con người

Xưa nay kẻ sống và người chết

Chẳng bao giờ đang tâm bỏ rơi nhau

                   (Mưa có rơi thì ta vẫn phân minh)

Bên kia cánh đồng là phố! Trò chơi

Nơi sấp ngửa đỏ đen thời cuộc

Đúng và sai đường biên ranh giới

Lửa ma trơi soi mặt quỷ người…

                   (Đầu năm biên vội vài điều)

Ngàn năm công và tội

Đúng sáng chiều lại sai

Hân hoan rồi sám hối

Cuộc cờ thật bi hài

          (Ai thương ta thì nhớ… )

Chúa vẫn ở trên cao

Cần lao nằm dưới đất

Có những sự thật không phải là sự thật

Có những nỗi buồn không thể nhớ thành câu…

(Có những nỗi buồn không thể nhớ thành câu… )

Đấy là những con chữ đau đớn, khắc khoải, lo âu được viết ra từ sự trải nghiệm, chiêm nghiệm sâu sắc. Qua trải nghiệm, chiêm nghiệm nhân thế như vậy có buồn bã, có chát đắng, có xót xa nhưng không bi quan, điều chính yếu là để bày tỏ niềm xác quyết làm người: “sống như một con người thì mới thật khó khăn”. Thật khó cho việc làm người, nên thơ Bùi Viết Anh đã cảm nghiệm đầy thấm thía rằng, con người đã “bị bắt làm người”:

Rằng hôm nay bị bắt làm người

          Nên bể dâu tự trời lo lấy

                   (Rằng hôm nay bị bắt làm người)

Lẽ thường, ai cũng đều nghĩ rằng, được làm người là hạnh phúc. Chính Bùi Viết Anh khi xưng tụng tình yêu đã viết những dòng đầy hân hoan: “Anh và em được sinh ra trên đời là diễm phúc, Sẽ cùng nhau yêu nốt phận mình” (Cánh đồng Chum). Thế tại sao câu thơ ở đây lại viết: “Rằng hôm nay bị bắt làm người”? Viết như thế là viết chơi chơi theo kiểu ngược đời hay là viết có nét độc đáo và mang tính triết lý? Triết gia Pháp Jean Paul Sartre, một triết gia chủ chốt của triết học hiện sinh cho rằng “con người bị kết án phải tự do” (4). Sở dĩ Jean Paul Sartre nói là “kết án”, vì không ai được chọn cửa để sinh ra, không ai biết mình sinh ra là vật thể gì (cát đá, cỏ hoa, người… ), con người bị ném vào thế giới và phải sống với sự tự do lựa chọn của mình, chịu trách nhiệm về những gì mình làm, không thể trốn tránh, không thể đỗ lỗi cho người khác. Tự do như thế không chỉ là món quà tặng của tạo hoá mà còn là gánh nặng “bị bắt làm người”. Khi Bùi Viết Anh viết: “Nên bể dâu tự trời lo lấy” không có nghĩa là cổ suý cho sự vô lo, sống không lựa chọn. Theo Jean Paul Sartre, không lựa chọn cũng chính là một cách lựa chọn: “Ta thậm chí có thể lựa chọn là người không lựa chọn gì cho mình cả” (5). Cho nên, câu thơ: “Nên bể dâu tự trời lo lấy” không phải nói về sự buông xuôi, không lựa chọn mà là thể hiện sự lựa chọn một cách thế sống an nhiên, tự tại giữa cõi trần vô thường: ông trời lo lấy chuyện bể dâu còn con người “bị kết án phải tự do”, “bị bắt làm người” sẵn sàng chấp nhận, không ngại gì chuyện “Trải qua một cuộc bể dâu” (Nguyễn Du). Để sống và chết như một con người, thơ Bùi Viết Anh nhấn mạnh về sự lựa chọn của đời người, qua bài thơ “Chọn”: chọn một lối sống, một đức tin, một điều tốt, một cuộc tình, một bình minh, một mơ ước, một bài hát, một hôm nay, một đắng cay, một gian dối, một cách chết, chọn cho mình tử tế không? “Chọn cho mình tử tế không?”, dĩ nhiên phải chọn rồi, nhưng câu thơ đặt thành câu hỏi, như một sự cật vấn lương tri người đọc: anh có sống tử tế được không, khi trong cõi thế, sống đích thực là điều không dễ và theo triết hiện sinh, chỉ khi đối diện với vấn đề cái chết, con người mới đích thực sống. Khổ kết bài thơ “Chọn” gieo mầm tin yêu, lạc quan, hy vọng trước một vấn đề cân não, gay cấn của nhân sinh là lựa chọn:

          “luân hồi xuân hạ thu đông

          ngày sau mặt trời vẫn mọc

          dù chọn thế nào - đừng khóc

          vì ta được chọn cho mình

                   (Chọn)

Để cho sự lựa chọn được thuận lẽ, “phải phép”, xứng với thiên chức “thật khó khăn” của việc làm người, tập thơ đã nêu bật những chỗ dựa chính yếu cho sự lựa chọn này.

Dựa vào sức mạnh tinh thần của chính mình, từ linh hồn cho đến hơi thở (tựa như hành thiền niệm hơi thở - anapanasati) vậy:

            “tôi níu lấy linh hồn mình

(Bái vọng)

Thở nhiều tôi ơi

Mùa xuân sắp đến rồi

          (Thở nhiều tôi ơi)

Dựa vào trí óc của con người, một trí óc tôi luyện bằng sự “khổ não” để tỉnh thức, bừng ngộ:

Nếu còn chút liêm sỉ

Thì tôi đã bỏ làm thơ từ lâu rồi

 

Nếu còn chút liêm sỉ

Tôi cũng xoá trí nhớ mình đã lưu…

 

Nhưng liêm sỉ còn đâu?

Tôi là kẻ đười ươi hèn hạ…

 

Loài người thật hoàn mỹ

Họ nói hay như hát

 

Sáng nay Chủ nhật

Tôi sẽ đi làm mắm trí óc mình…  

(Tôi sẽ đi làm mắm trí óc mình… )

Dựa vào sự hồn nhiên bản thể của con người:

Rồi đôi khi sợ người đến phát phiền

Tao lại âm thầm một mình ra giữa đồng chơi với dế

          (Nhà thơ)

Dựa vào tình người nồng ấm, bất diệt:  

Anh tung sỏi lên trời và hát

Tiếng yêu thương để sống hàng ngày

(Lời kinh vạn dặm)

Đặc biệt, dựa vào mạ (người mẹ), người mang nặng đẻ đau, sinh thành ra mình. Mạ là nguồn cội của tin yêu bền vững, mạ là quê hương thiết tha, là chân lý muôn đời:

“thời cuộc kệ họ

          hạnh phúc của con nằm trong giấc mơ của mạ”

          giữa chênh vênh trời đất

          tôi nhận ra mình còn một điểm tựa

          vĩnh hằng…

                   (Vô ngôn)  

          Chiều sau bão thèm bữa cơm mạ nấu

          Thương muối cà canh khế đọi rau

          Đi suốt đời qua biết bao cơn bão

          Ngả lưng nằm vẫn nhớ chốn chôn nhau

                   (Nhẹ nhàng lướt qua cơn bão)

Gặp được nhau hôm nay đã là món quà

Mạ anh nói trời đoong gạo cho người ta hết thảy

Ai được no ai lưng chừng ai đói

Lưới trời lồng lộng nhưng không thưa

(Một ngày bình thường dài)

Con người sống đúng nghĩa thì được chết đúng nghĩa. Viết về cái chết, để cho thơ có tính chân thực, dĩ nhiên Bùi Viết Anh không ngại viết về nỗi sợ chết. Nhưng vượt lên nỗi sợ chết, thơ Bùi Viết Anh còn viết về sự lựa chọn cách chết: chết sao cho nấm mồ khi lìa trần được ấm tình bạn bè:

Anh nằm đó

Bạn bè đến với nắm cát buông xuống đáy mồ

… Với tôi chỉ cần hơn ba giọt nước mắt

là đủ khẳng định rằng anh là người tốt…

(Cuộc chơi là nhục vinh)

Trong tập thơ này của Bùi Viết Anh, ngoài mảng thơ quê hương, thơ đời, thơ về sinh tử… , thơ tình chiếm một dung lượng đáng kể, nhiều ấn tượng đọng lại. Có khi thơ tình lồng trong thơ quê hương, mang đến cho thơ một cách diễn tả mới khi ví von nỗi nhớ người yêu sâu đậm như đất đai nhớ dấu cày: “Những da diết phơi mình trên nếp nghĩ, Nỗi nhớ em vẫn in dấu đất cày… ” (Những ngày mưa đã qua và sắp tới). Trong thơ tình Bùi Viết Anh, người con trai đa tình, lãng tử, mã thượng biết đề cao giá trị thẳm sâu của “đáy mắt em biết khóc” hơn những thứ “phồn vinh phố xá xa hoa” mà không ít người thường chạy theo, biết thấm thía giá trị của “mắt em có bão” để thấu được nguồn cơn của “tiềm thức si mê” bắt đầu từ đó. Người con trai đó trải bao dặm đường nhận hết về mình những cơn mưa ướt chỉ để mong cho người yêu đừng “ướt mi”: “Anh nắm tay thôi đã làm em rạng rỡ, Mưa chỉ cần đừng ướt phía em nhìn… (Người thương). Hèn gì, những người nữ trong thơ tình Bùi Viết Anh đều đa đoan, đa cảm đến tận cùng!   

Đọc tập thơ này, bằng trực cảm, dễ nhận thấy Bùi Viết Anh làm thơ rất nhanh, mạch thơ trôi chảy tự nhiên, kể cả mạch tự sự lẫn mạch trữ tình. Có những câu thơ viết theo mạch nói nhưng đọc nghe không khác gì mấy với thơ có vần do thơ có nhạc tính bên trong. Bùi Viết Anh viết hồn nhiên, không có dấu vết của sự dụng công (không có “dấu vết” không có nghĩa là không dụng công), khi cảm xúc ôm lấy thắm thiết kỹ thuật con chữ:

yêu em từ độ bất ngờ

từ trong xiêm áo từ ngơ ngác nhìn

… bẽ bàng muôn nẻo

rồi sao?

Tận trong tuý luý bỗng chao ôi! buồn

(Sau lần ái mộ đầu tiên)

Ở đây có sự bẽ gãy nhịp điệu câu thơ lục bát truyền thống, tạo nên nhịp điệu mới, phù hợp với cảm xúc đứt gãy. Còn đây là sự “dụng tâm”, viết ra từ những “tỉnh thức đớn đau” của trải nghiệm:

Xoè tay đếm năm đến mười

Tiền tài danh vọng tan trôi

(Ơi)

Đếm xong từ một đến mười

Thưa rằng đếm lại sẽ đời tươi hơn

(Ngày mồng Một năm con Rồng)

Đối với việc sáng tạo nghệ thuật, thường vẫn vậy, có khi trong chỗ mạnh có chỗ nhược, trong sở trường có sở đoản. Có phải do Bùi Viết Anh làm thơ được nhanh mà tập thơ này còn có đôi bài viết chưa tới? Có những ý thơ chưa sát đúng, ví dụ: “như đứa trẻ đêm khuya khát sữa, giả đò ngậm tay mình” (Giả đò), người lớn biết giả đò, chứ trẻ thơ ngậm tay là làm theo bản năng sống, đâu phải giả đò. Bên cạnh lối viết mới, độc đáo: “Mưa có rơi thì ta vẫn phân minh”, “Rằng hôm nay bị bắt làm người”… , có lối viết nghe đã quen như “Khi nào ta yêu nhau”… cần thay đổi để được mới hơn.

Sống và chết đúng nghĩa đều khó khăn như nhau. Sống mới hơn để có thơ mới hơn. Tin rằng, Bùi Viết Anh sẽ tiếp tục làm mới tâm hồn mình, đưa thơ mình đi xa hơn, tiếp tục “mua trự người” để nâng cao phẩm tính của thơ, đồng thời để cho thơ góp tiếng mong manh vì khát vọng nhân văn, “nhân bản hoá” cõi thế này: “Bán cho anh một trự người, Đười ươi quê quán biển khơi mịt mù” (Bán).

                                                                         N.H  

___________________________

(1) Tìm: Tên quai nôi của Bùi Viết Anh.

(2) Martin Heidegger, Tồn tại và Thời gian (Sein und Zeit), NXB Max Niemeyer, tr. 145. Dẫn theo Walther Ziegler, Những nhà tư tưởng lớn, Heidegger trong 60 phút, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2021, tr. 37. 

(3) Martin Heidegger, Tồn tại và Thời gian (Sein und Zeit), NXB Max Niemeyer, tr. 135. Dẫn theo Walther Ziegler, sđd, tr. 119. 

(4) Jean Paul Sartre, Existentialism is a Humanism (Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản/L’existentialisme est un humanisme), Yale University Press 2007, tr.29. Dẫn theo Walther Ziegler, Những nhà tư tưởng lớn, Sartre trong 60 phút, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2021, tr. 27.  

(5) Jean Paul Sartre, Being and Nothingness (Tồn tại và Hư vô/L’Être et le Néant), Routledge Classics 2002, tr. 494. Dẫn theo Walther Ziegler, sđd, tr. 30.  

NGUYỄN HOÀN

Mới nhất

Cần có cái nhìn toàn cảnh, liên kết trong tôn vinh giá trị văn hoá miền Trung

19/06/2025 lúc 09:19

Với vai trò là cơ quan ngôn luận, diễn đàn văn hoá văn nghệ của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành, các tạp chí văn nghệ 6 tỉnh, thành Bắc miền Trung thường xuyên chú trọng tôn vinh giá trị văn hoá các tỉnh, thành nói riêng, miền Trung và cả nước nói chung. Các tạp chí văn nghệ đã mở các chuyên mục như: Văn hoá, Cửa sổ văn hoá (Tạp chí Xứ Thanh), Đất Nghệ - Người Nghệ, Bàn tròn (Tạp chí Sông Lam), Nghiên cứu - Phê bình - Giới thiệu (Tạp chí Hồng Lĩnh), Nghiên cứu văn hoá (Tạp chí Nhật Lệ), Văn hoá thời đại, Người và đất quê hương (Tạp chí Cửa Việt), Văn hoá nghệ thuật, Đất và người, Nhịp cầu di sản (Tạp chí Sông Hương)… tập trung nghiên cứu, phân tích, giới thiệu, quảng bá các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể, các giá trị văn hoá của từng tỉnh, thành và miền Trung, tạo nên hiệu quả kép: vừa góp phần xây dựng, phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; vừa góp phần quảng bá hình ảnh của tỉnh, thành, phát triển kinh tế du lịch.

Lê Như Tâm - Đất nước của những hạnh phúc

18/06/2025 lúc 23:25

Phải từ 10 năm, thời gian chờ đợi như thế đối với sáng tác văn chương là quá dài. Nhưng trong mong mỏi nó có cái hay của nó, nhà thơ Lê Như Tâm âm thầm gieo hạt, để rồi những mầm thơ nảy nở trên những trang thơ. Tôi đã chờ quá lâu, khi bắt được những con chữ trong “Mùa không đợi tuổi”, nó thật xứng đáng với thời gian đèo bồng, của cả đọc giả và thi sĩ khi cõng trên vai mình cả cuộc đời thơ.

Chuyển đổi số báo chí để đóng góp vào công nghiệp văn hóa

19/06/2025 lúc 09:14

Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn hiện nay. Trên lĩnh vực văn hóa, việc chuyển đổi số nhằm bảo tồn, gìn giữ và mở rộng, giao lưu, phát huy các giá trị văn hóa, quảng bá hình ảnh quê hương, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Đây cũng là một nội dung quan trọng của công nghiệp văn hóa, nhất là khi chúng ta đang sẵn sàng tâm thế để tiến vào "kỷ nguyên mới".

Nhà văn và AI

19/06/2025 lúc 09:16

Khi nhà văn tự đặt câu hỏi “vì sao phải viết?”, “viết để làm gì?”, “viết như thế nào?”… tức là nhà văn đã ý thức sâu sắc về giá trị và tính cấp thiết của hành động viết. Viết là nhu cầu nội tại để bày biện quan điểm, góc nhìn của bản thân về con người, cuộc sống. Nếu không viết, nhà văn sẽ có cảm giác như đánh mất một cái gì đó mà cuộc sống dẫu đủ đầy, dư dả vẫn không bao giờ bù đắp được. Vì thế, viết trước hết để được là chính mình. Viết để thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Viết là nơi nhà văn hiện hữu một cách tự do nhất, có quyền làm chủ không gian tâm hồn, mở rộng và thênh thang nó theo cách mình muốn. Thế nhưng, khi AI (Artificial Intelligence) đang âm thầm xâm nhập và tác động đến mọi ngóc ngách, hang cùng ngõ tận của đời sống thì sự viết của nhà văn cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng, thách thức và hệ lụy. Vậy, nhà văn sẽ viết như thế nào trước sự lấn lướt ngày càng mạnh của AI? Và bản lĩnh của nhà văn sẽ được thể hiện ra sao trong kỷ nguyên đầy biến động này?

Nhà văn Xuân Đức nặng nghĩa tình với quê hương

19/06/2025 lúc 09:11

Ngày 20 tháng 6 năm 2025, vừa tròn 5 năm nhà văn Xuân Đức đi xa. Cùng với những người yêu văn chương, giới văn nghệ cả nước và tỉnh Quảng Trị vô cùng thương tiếc một nhà văn lớn, nặng nghĩa tình với quê hương.

Lời cảm ơn của Tạp chí Cửa Việt nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

2 Giờ trước

TCCV Online - Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6 (1925-2025), Tạp chí Cửa Việt vinh dự được đón các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh, các sở, ban, ngành, đoàn thể, các huyện, thị xã, thành phố, các đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức, doanh nghiệp và các cộng tác viên, bạn đọc thân thiết… đã đến thăm, gửi lẵng hoa chúc mừng. Ban Biên tập Tạp chí Cửa Việt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm và niềm tin yêu, quý mến đó.

''Dấu ấn miền đất lửa''

17 Giờ trước

Hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025); kỷ niệm 35 năm Tạp chí Cửa Việt xuất bản số đầu tiên (1990 - 2025) và gặp mặt cộng tác viên năm 2025...

Trao giải cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” tỉnh Quảng Trị năm 2025

19/06/2025 lúc 16:25

Sáng nay 19/6, Ban tổ chức cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” tỉnh Quảng Trị tổ chức lễ tổng kết và trao giải cuộc thi năm 2025.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

21/06

25° - 27°

Mưa

22/06

24° - 26°

Mưa

23/06

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground